DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ĐỀN GỐM
- Thứ tư - 05/04/2023 21:24
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Di tích lịch sử Đền Gốm nằm trên địa bàn KDC Ninh Giàng, phường Cổ Thành, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Là nơi thờ phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư - một tướng hải quân kiệt xuất đã lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thế kỉ 13
Theo sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú: Trần Khánh Dư là người Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là tôn thất nhà Trần nên được phong là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc, thân phụ là Thượng tướng Trần Phó Duyệt, phụ mẫu là phu nhân chính thất Nguyễn Thị Mậu.
Kế thừa truyền thống Hoàng tộc, ngay từ nhỏ Trần Khánh Dư rất say mê sách vở và giỏi binh thư. Ông là người lập nhiều công lao to lớn trong các cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên thế kỷ 13. Năm 1258, cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần 1 nổ ra, trong trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu, tướng trẻ Trần Khánh Dư bằng mưu trí sáng tạo, đột kích bất ngờ vào trại giặc thu được thắng lợi lớn. Sau trận này, quân Nguyên Mông bị đánh bật khỏi Kinh Thành, phải rút quân về nước. Đầu xuân năm Mậu Ngọ (1258), tại buổi lễ thiết triều đầu xuân mừng công ban thưởng cho các tướng lĩnh, Trần Khánh Dư được vua khen là người có trí lược và phong là Thiên tử nghĩa Nam. Một thời gian sau, do ông phạm tội, bị triều đình cắt chức trở về quê làm nghề chèo đò bán than.
Tháng 11 năm 1282, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2, vua Trần họp hội nghị Bình Than lấy ý kiến vương hầu, bách quan bàn kế công, thủ đánh giặc. Trong dịp này vua Trần tình cờ gặp Trần Khánh Dư chèo thuyền chở than qua bến Nhạn Loan trong cảnh “nón lá, áo tơi”. Vua cho mời Trần Khánh Dư tới và phục lại các chức cũ cho cùng dự bàn kế sách giữ nước. Tại hội nghị Bình Than, Trần Khánh Dư tỏ ra là người có mưu lược, hiến nhiều kế sách tác chiến sâu sắc hợp với ý vua. Trần Thái Tông lại phong chức Phó tướng đô quân. Sau khi dẹp tan giặc, ông lại được phong Tước Hầu.
Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3, Trần Khánh Dư được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ quyết chiến trên biển. Tại đây, Trần Khánh Dư đánh thắng trận Vân Đồn tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ. Chiến thắng Vân Đồn làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần quân Nguyên Mông, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3 sớm kết thúc thắng lợi.
Trần Khánh Dư không chỉ là người có tài, cầm quân xung trận mà ông còn có khả năng đặc biệt trong việc luyện binh và hiểu thấu đáo binh pháp của Trần Hưng Đạo. Khi Trần Hưng Đạo viết cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để rèn luyện quân sĩ thì chính Trần Khánh Dư là người viết lời tựa về việc sử dụng binh pháp, thể hiện tài thao lược của ông: “Phàm việc dùng binh hễ giỏi thì không cần bầy trận, mà giỏi bày trận thì không cần đánh, giỏi đánh thì không thua, không thua thì không chết”. Với cống hiến to lớn trong suốt ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư là người tướng tài; ông đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương.
Đất nước thanh bình, Trần Khánh Dư về sống những năm tháng cuối đời tại Thái Ấp bên vụng Trần Xá (thuộc Chí Linh, Hải Dương) – nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản xuất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân địa phương tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương rất phát đạt. Do vậy, tên thôn Ninh Giàng còn có tên gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm 1339 Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương từ”.
Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3, Trần Khánh Dư được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ quyết chiến trên biển. Tại đây, Trần Khánh Dư đánh thắng trận Vân Đồn tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ. Chiến thắng Vân Đồn làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần quân Nguyên Mông, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3 sớm kết thúc thắng lợi.
Trần Khánh Dư không chỉ là người có tài, cầm quân xung trận mà ông còn có khả năng đặc biệt trong việc luyện binh và hiểu thấu đáo binh pháp của Trần Hưng Đạo. Khi Trần Hưng Đạo viết cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để rèn luyện quân sĩ thì chính Trần Khánh Dư là người viết lời tựa về việc sử dụng binh pháp, thể hiện tài thao lược của ông: “Phàm việc dùng binh hễ giỏi thì không cần bầy trận, mà giỏi bày trận thì không cần đánh, giỏi đánh thì không thua, không thua thì không chết”. Với cống hiến to lớn trong suốt ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư là người tướng tài; ông đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương.
Đất nước thanh bình, Trần Khánh Dư về sống những năm tháng cuối đời tại Thái Ấp bên vụng Trần Xá (thuộc Chí Linh, Hải Dương) – nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản xuất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân địa phương tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương rất phát đạt. Do vậy, tên thôn Ninh Giàng còn có tên gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm 1339 Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương từ”.
Trải qua những năm tháng lịch sử, di tích đền Gốm đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo lại. Đền được xây dựng thế kỷ 14 đến thế kỷ 17,18 thời Lê đền được trùng tu lại, kiến trúc theo kiểu chữ đinh với 3 lớp nhà gồm 5 gian đại bái, 5 gian trung từ, 3 gian hậu cung.
Cuối thế kỷ 19, thực dân pháp tiến đánh vùng Phả lại, Chí Linh, di tích đền Gốm cũng bị chúng đốt dỡ. Năm 1933, nhân dân thập phương công đức đầu tư trùng tu lại toàn bộ ngôi đền. Kết cấu kiến trúc được giữa nguyên như cũ gồm 3 lớp nhà. Riêng nhà đại bái trước 5 gian đã được mở rộng thên hai gian đầu hồi để làm miếu cô.
Năm 1986 Đền Gốm được UBND tỉnh Hải Hưng xếp hạng di tích cấp tỉnh, Ngày 05 tháng 02 năm 1994 Đền Gốm được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Năm 2019, được sự quan tâm của Nhà nước và tâm sức của nhân dân địa phương, ngôi đền đã được tu bổ, tôn tạo mang một diện mạo mới khang trang và bề thế hơn nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính trầm mạc của một ngôi đền cổ. Đền chính kiến trúc một tầng, mái kiểu chữ Đinh gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung. Bước qua cửa tam quan tiến vào khu nhà đại bái du khách được chiêm ngưỡng một nhanh áng cổ mang đặc điểm mỹ thuật thời Nguyễn, cùng những bức tượng thờ quan văn, quan võ và nhị vị cô nương (tức 2 công chúa thời Trần). Bên trong hậu cung còn lưu giữ một cuốn thư cổ được xác định có từ thời Nguyễn, cuốn thư có chất liệu gỗ, sơn son thiếc vàng đề “vọng như vân”. Nằm ở chính giữa hậu cung, ban cao nhất là tượng Trần Khánh Dư, tư thế ngồi trong ngai, hai bên tả và hữu là tượng thờ Thượng tướng Trần Phó Duyệt, phu nhân chính thất Nguyễn Thị Mậu, thân phụ và phụ mẫu Trần Khánh Dư. Trong quần thể khuôn viên đền Gốm còn có nhà thờ tam tổ, đình Gốm, chùa Gốm, tháp chùa, tam tòa thánh mẫu. Đền Gốm hiện còn lưu giữ được 3/11 đạo sắc phong, sớm nhất là đạo sắc từ thời Tự Đức, muộn nhất là thời Khải Định.
Năm 1986 Đền Gốm được UBND tỉnh Hải Hưng xếp hạng di tích cấp tỉnh, Ngày 05 tháng 02 năm 1994 Đền Gốm được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Năm 2019, được sự quan tâm của Nhà nước và tâm sức của nhân dân địa phương, ngôi đền đã được tu bổ, tôn tạo mang một diện mạo mới khang trang và bề thế hơn nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính trầm mạc của một ngôi đền cổ. Đền chính kiến trúc một tầng, mái kiểu chữ Đinh gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung. Bước qua cửa tam quan tiến vào khu nhà đại bái du khách được chiêm ngưỡng một nhanh áng cổ mang đặc điểm mỹ thuật thời Nguyễn, cùng những bức tượng thờ quan văn, quan võ và nhị vị cô nương (tức 2 công chúa thời Trần). Bên trong hậu cung còn lưu giữ một cuốn thư cổ được xác định có từ thời Nguyễn, cuốn thư có chất liệu gỗ, sơn son thiếc vàng đề “vọng như vân”. Nằm ở chính giữa hậu cung, ban cao nhất là tượng Trần Khánh Dư, tư thế ngồi trong ngai, hai bên tả và hữu là tượng thờ Thượng tướng Trần Phó Duyệt, phu nhân chính thất Nguyễn Thị Mậu, thân phụ và phụ mẫu Trần Khánh Dư. Trong quần thể khuôn viên đền Gốm còn có nhà thờ tam tổ, đình Gốm, chùa Gốm, tháp chùa, tam tòa thánh mẫu. Đền Gốm hiện còn lưu giữ được 3/11 đạo sắc phong, sớm nhất là đạo sắc từ thời Tự Đức, muộn nhất là thời Khải Định.
Phía bên kia bờ đê có Đền Thủy (tức Đền trình) nằm soi mình bên sông Kinh Thầy. Đền thờ thủy thần, đây được xem là nơi trình báo trước khi du khách bước vào khu đền chính. Qua nhiều năm bị giặc Pháp tàn phá, đến nay, Đền Thủy đã được UBND TP Chí Linh phục dựng lại. Đền được thiết kế theo kiểu trồng diêm cổ các, 8 mái đao cong đắp vẽ hình Long Phụng trên sàn bê tông cốt thép, đảm bảo cho nước chảy trong mùa mưa lũ. Đền Thủy với các hạng mục công trình: Đền Thủy, cầu, bậc lên xuống bằng đá xanh nguyền khối, hạng mục công trình kè bờ đê 2 bên, đổ phên bê tông trồng hoa cây cảnh…
Hàng năm, mỗi độ thu về, từ 13 đến 21 tháng 8 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Gốm tưởng niệm danh nhân Trần Khánh Dư thu hút hàng vạn người từ nhiều địa phương trở về trong cảnh “trên bến, dưới thuyền” đông vui nhộn nhịp. Ca dao xưa làng Gốm còn ghi nhận không khí tưng bừng của ngày hội muôn màu, muôn sắc của một vùng quê:
“ Gốm trông giang thuỷ hữu tình
Càng nhìn, càng thấy vẻ sinh tuyệt vời
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng tám hội mừng đua chen”
Dưới sông thuyền chạy ngược xuôi
Trên bờ phố Gốm hết lời ngợi ca
Đêm đèn đốt tựa sao sa
Đền thờ Nhân Huệ nguy nga lẫy lừng
Nhân dân nô nức tưng bừng
Đón rằm tháng tám hội mừng đua chen”